Năm | 2023 |
---|---|
Trọng lượng | 500gr |
Loại Sản Phẩm | Bìa mềm |
Kích Thước | 14.5 x 20.5 cm |
Số Trang | 420 |
Tác Giả | Tuệ Sỹ |
Nhà Xuất Bản | Hội Đồng Hằng Pháp |
Thiền định là một từ phức bao gồm hai yếu tố trong ngôn ngữ Hán Việt thường được dùng như một từ đơn. Điều này khiến một số người có thể hiểu nhầm, hoặc cảm thấy bối rối khi tìm trong kho từ vựng Phật học Pāli và Sanskrit không thấy một từ đơn nào tương đương, từ đó dẫn đến kết luận, trong Phật giáo không có cái gì gọi là thiền định. Kết luận này không phải hoàn toàn không đúng.
Theo thói quen của một số người sử dụng từ Hán Việt, trong tập quán ngôn ngữ đơn âm, thường dùng từ kép hơn là từ đơn; vì sự phát âm từ đơn nghe có vẻ “cộc”, không êm tai, do đó ghép hai từ (a) thiền vốn là phiên âm từ dhyāna và (b) samādhi trong tiếng Phạn. Hai từ này có thể dùng thay thế nhau vì cùng chỉ trạng thái tập trung, tuy vậy trạng thái tâm lý tập trung tư duy mà cả hai từ chuyển tải có sự khác biệt về đẳng cấp. Phân biệt ý nghĩa khác nhau của hai từ này sẽ được nói rõ hơn trong Chương II (Phần I).
Dhyāna: thiền-na, thiền; nó là danh từ phái sinh từ động từ căn √dhyai (dhyāyati, dhyāti).
Từ dhyāna được Câu-xá viii định nghĩa theo từ nguyên như sau: dhyānam iti ko’rthaḥ | dhyāyanty aneneti | prajānantīty arthaḥ | Do bởi nó mà chúng nó tư duy, nên nó có nghĩa là (công cụ) tư duy (dhyāna = dhyai + ana). Chúng nó tư duy có nghĩa là chúng nó nhận thức. Lối trực dịch này tương đối khó lãnh hội với người đọc chưa quen với các quy tắc cấu trúc từ ngữ, cú pháp trong Phạn văn. Do vậy, trong khi dịch đoạn này, Huyền Trang diễn thêm một ít.
Hán dịch chuẩn từ dhyāna bởi Huyền Trang là “tĩnh lự.” Câu-xá giải thích: “Tĩnh lự nghĩa là gì? Do tịch tĩnh này mà tư duy thẩm sát (thẩm lự). Tư duy thẩm sát có nghĩa là nhận thức chân thật.” Ở đây, với danh từ dhyāna Huyền Trang dịch là “tĩnh lự” nhưng với động từ dhyāyanti thì dịch là “thẩm lự”.
Câu-xá cũng nói thêm về ý nghĩa của động từ căn này, theo đó nó được hiểu là “tư duy” (cintana); và tư duy trong tông nghĩa của Tì-bà-sa chính là tâm sở huệ (prajñā).[4] Tâm sở huệ nói đây không phải là chức năng tâm lý với những hoạt động thông thường, mà nó là khả năng nhận thức chính xác về đối tượng. Do nhận thức như thật chính xác của tâm được tập trung mà huệ (prajñā) trong trường hợp này được gọi là dhyāna.[5]
Từ Sanskrit dhyāna tương đương với từ Pāli jhāna. Jhāna là phát âm hỗn chủng (hybrid) của từ dhyāna, theo quy tắc biến đổi ngữ âm dhya → (j)jha. Ví dụ: vidhyati → vijjhati (xuyên thủng); madhyama→majjhima (khoảng giữa); dhyāyati → jhāyati (tư duy).
Từ Pāli jhāyati này, ngoài nghĩa chỉ các hoạt động tâm lý liên hệ đến tư duy, nó còn hàm nghĩa thứ hai: thiêu hủy, như được giải thích trong Thanh tịnh đạo luận: “Gọi nó là jhāna, vì nó thắp sáng (upanijjhāna) sở duyên, và thiêu hủy (jhāpana) chướng ngại”. Giải thích này cũng gần với Tì-bà-sa, trong đó, ngoài nghĩa tư duy hay chánh quán, nó còn hàm nghĩa đoạn trừ kết hay phiền não. Jhāyati theo nghĩa 2 này có từ phái sinh của nó là jhāma hàm nghĩa bốc cháy, thiêu đốt, với tình trạng cháy đen. Từ điển Pāli của hội PTS dẫn động từ này cùng gốc với Sanskrit kṣāy~. Nguyên hình Sanskrit của động từ này là kṣai & kṣī (kṣāyati): đốt cháy. Nhưng động từ Sanskrit này cùng với thân tộc của nó không được ghi trong từ điển Edgerton.
Dựa theo các dẫn chứng về từ nguyên trên, chúng ta có thể cho rằng từ Sanskrit dhyāna là một dạng Sanskrit chuẩn hóa của jhāna, hàm cả hai nghĩa: thiêu đốt và thiêu hủy, như giải thích của Thanh tịnh đạo luận và Tì-bà-sa. Nếu điều này được chứng minh, dhyāna như được thông dụng ngày nay chỉ là một dạng biến đổi ngữ âm của từ gốc nguyên thủy jhāna, trong tiếng Phạn hỗn chủng (hybrid Sanskrit).
Giải thích ý nghĩa từ Pāḷi Jhāna như Thanh tịnh đạo luận hay Sanskrit như Đại Tì-bà-sa có khả năng dẫn chúng ta đến kết luận rằng, dhyāna/jhāna/thiền là một phương pháp tư duy đặc biệt chỉ xuất xứ từ Phật giáo. Trong từ samādhi: ta-ma-địa/định với nghĩa tập trung có thể chỉ cho phương pháp tư duy triết học, hay cầu nguyện tôn giáo trong nhiều hệ triết học và tôn giáo khác nhau. Điểm của tâm trong Phật giáo, samādhi hay định cũng giữ một vai trò quan trọng. Theo đó, trong bốn thiền (dhyāna) đều có samādhi được định nghĩa là cittasya ekāgratā: tính tập trung trên một tâm. Cho nên trong dhyāna/thiền nhất định có samādhi nhưng trong samādhi với bốn định vô sắc hoàn toàn không có các trạng thái của dhyāna. Đây là điều cần phân biệt giữa dhyāna và samādhi.
Mặc dù từ dhyāna trong nguyên nghĩa của nó chỉ hàm ý tư duy, Huyền Trang dịch là tĩnh lự được hiểu là tịch tĩnh và thẩm lự; đó là cách dịch diễn ý như đã thấy trong dẫn chứng trên. Theo diễn ý này, do bởi tính đặc sắc của các dhyāna là vận hành quân bình của trạng thái tập trung (śamatha: xa-ma-tha, chỉ) và quán sát (vipaśyanā: tì-bát-xa-na, quán), mặc dù trong bậc định (samādhi) vẫn có mặt chỉ và quán, nhưng ở đó chỉ được thiên trọng hơn quán.