Trọng lượng | 500gr |
---|---|
Loại Sản Phẩm | Bìa mềm |
Kích Thước | 20 x14 cm |
Tác Giả | Nhiều tác giả |
Nhà Xuất Bản | Phụ Nữ |
Combo Giáo Dục Việt Nam Học Gì Từ Nhật Bản + Mẹ Nhật Dạy Con Thành Tài Trước Năm 12 Tuổi (Bộ 2 cuốn)
1. Giáo Dục Việt Nam Học Gì Từ Nhật Bản
Là một người quan tâm đến giáo dục và mong muốn đóng góp vào công cuộc cải cách giáo dục ở Việt Nam, trong thời gian du học tại Nhật Bản, nhà nghiên cứu Nguyễn Quốc Vương đã tìm tòi nghiên cứu và có nhiều bài báo, công trình nghiên cứu có tính phản biện và đưa ra các phân tích mang tích độc lập về các vấn đề nóng của giáo dục Việt Nam.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả nhận thấy hầu hết các vấn đề của giáo dục Việt Nam hiện nay còn đang tranh cãi thì ở Nhật đã gặp phải, cũng như đã giải quyết được cách đây hơn 70 năm. Và để có được một xã hội Nhật Bản thịnh vượng như ngày nay, Nhật Bản đã phải trải qua công cuộc cải cách giáo dục một cách toàn diện, thậm chí chấp nhận xóa bỏ toàn bộ nền giáo dục trước đó. Chương trình giáo dục phổ thông Nhật Bản đã đổi mới thành công bởi các nhà quản lý giáo dục Nhật Bản: Chú trọng “cải cách giáo dục từ dưới lên”; coi Chương trình chỉ là tham khảo; Các môn học và phương pháp kiểm tra, đánh giá mới hoàn toàn mới so với trước.
“ Sau khi chính quyền Minh Trị được thiết lập năm 1868, trong vòng 10 năm đầu, quá trình cận đại hóa theo hướng “khai hóa văn minh” được xúc tiến mạnh mẽ. Cải cách giáo dục đã đi từ các thay đổi lẻ tẻ ở địa phương trở thành chính sách quốc gia. Phương châm của chính phủ Minh Trị lúc đó là đẩy mạnh cải cách giáo dục để cận đại hóa đất nước, du nhập nhanh và rộng các giá trị văn minh phương Tây. Để “nhập khẩu” văn minh, chính phủ Minh Trị đã cử học sinh ra nước ngoài du học và tích cực sử dụng người phương Tây trong vai trò là các chuyên gia, cố vấn.”
“Ở Nhật Bản trước Chiến tranh thế giới thứ hai, “triết lý giáo dục” không được coi trọng hay nói khác đi là không được ý thức đầy đủ. Nền giáo dục khi ấy được vận hành chủ yếu bởi các nguyên lý bất biến được xác định bởi “Học chế” và “Sắc chỉ giáo dục” do Thiên hoàng Minh Trị ban hành. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, dựa trên nền tảng của Hiến pháp 1946, triết lý giáo dục mới được xây dựng. Triết lý này được ghi rõ trong các bộ Luật về giáo dục như: Luật giáo dục cơ bản, Luật giáo dục nhà trường, Luật về Ủy ban giáo dục…Trong các bản Hướng dẫn học tập phần đầu tiên bao giờ cũng là phần trích dẫn những nội dung quan trọng nhất của Luật giáo dục cơ bản, Luật giáo dục trường học và Quy tắc thực thi Luật giáo dục trường học. Ở đó, triết lý giáo dục được trang trọng đặt ở chương đầu tiên “Mục đích và triết lý giáo dục”. Triết lý giáo dục mới này được thể hiện tập trung ở mục tiêu giáo dục nên người công dân có đầy đủ tri thức, phẩm chất, năng lực phù hợp với xã hội dân chủ, hòa bình, tôn trọng con người.”
Từ việc so sánh về giáo dục Việt Nam và Nhật Bản, tác giá đưa ra kết luận: Ở Việt Nam cho đến nay “triết lý giáo dục” vẫn là một thuật ngữ chuyên môn tương đối mới và xa lạ. Trong các văn bản quản lý giáo dục và thậm chí trong Hiến pháp, Luật giáo dục cũng không hề thấy xuất hiện thuật ngữ này mặc dù đối với một nền giáo dục “Triết lý giáo dục” là vô cùng quan trọng. Vì vậy, về lâu dài muốn xây dựng được nền giáo dục dân tộc, hiện đại và hội nhập quốc tế thì chắc chắn vấn đề “triết lý giáo dục” cần phải được giải quyết thấu đáo. Giáo dục Việt Nam cần đến một triết lý thu nhận được sự đồng thuận của đông đảo nhân dân và phù hợp với những giá trị phổ quát của nhân loại. Một khi có triết lý giáo dục rõ ràng, cải cách giáo dục sẽ diễn ra thuận lợi tạo nên những thay đổi tích cực.
Tác giả khẳng định, nếu không có một Triết lý giáo dục rõ ràng thì dù có nhập khẩu các chương trình giáo dục nổi tiếng, đã thành công trên thế giới, hay việc tìm tới những phương pháp giảng dạy tối ưu càng khiến giáo dục Việt Nam rơi vào tình trạng rối như bế tắc và có những biến tướng khó có thể chấp nhận.
2. Mẹ Nhật Dạy Con Thành Tài Trước Năm 12 Tuổi
Khi tiếp cận cuốn sách: Mẹ Nhật Dạy Con Thành Tài Trước Năm 12 Tuổi của tác giả Ayumi Tani, không ít người sẽ có phản ứng: 1. Liệu có là nói quá khi cho rằng mọi đứa trẻ đều có thể trở thành thiên tài. 2. Vì sao lại là đến khi trẻ 12 tuổi.
Để trả lời cho câu hỏi thứ nhất tác giả cuốn sách dựa trên quan điểm: “Bất cứ đứa trẻ nào cũng tiềm ẩn khả năng có thể nuôi dưỡng thành thiên tài, có khả năng suy nghĩ độc lập, tự học hỏi nghiên cứu, theo đuổi ước mơ của mình”. Và bà cho rằng: “bộ óc thiên tài” chính là khả năng tự mình suy nghĩ, tự hướng tới giấc mơ của bản thân mà nỗ lực.
Với câu hỏi thứ 2: Tại sao lại là đến khi trẻ 12 tuổi, bà cho rằng:
Não trẻ cho đến 6 tuổi đã hoàn thiện đến 90% , để xây dựng nền tẳng giúp não hoạt độc tốt hơn thì cần thực hiện trước 1 tuổi.
Cơ sở của học tập chính là khả năng đọc, viết và khả năng tính toán. Việc học tập tại bậc tiểu học chính là toàn bộ nền tảng cơ sở sau này.
Thói quen học tập cần được nuôi dưỡng, rèn luyện càng sớm càng tốt. Cũng giống như thói quen đánh răng hàng ngày được luyện tập càng sớm sẽ càng dễ thành thói quen.
“Nhận thức bản thân”, yếu tố quyết định hành động của trẻ sau này, chịu ảnh hưởng rất lớn từ cha mẹ trong thời kì tiểu học.
Từ bậc trung học trở đi, trẻ sẽ không nghe lời bố mẹ hoàn toàn nữa.
Vì những lý do trên, bà đưa ra lời khuyên cho các bậc cha mẹ nên nuôi dưỡng tình cảm và bồi đắp trí tuệ của trẻ cho đến khi 12 tuổi, giúp trẻ tự tin vào bản thân. Sau đó có thể buông tay, tin tưởng để trẻ tự phát triển. Nhờ vậy người mẹ vừa có thời gian để sống cho bản thân, lại vừa giúp đứa trẻ có được khả năng tự lập tốt hơn nữa.
Từ kinh nghiệm của chính bản thân bà, đồng hành cùng cậu con trai, cùng con tự học giúp cậu không cần phải đến bất kì lớp học thêm nào cũng có thể đổ thẳng vào trường đại học danh tiếng hàng đầu Nhật Bản: Đại học Tokyo.
Bí quyết của bà không có gì cao siêu mà chỉ là những điều hết sức đơn giản mà bất cứ người MẸ BÌNH THƯỜNG NÀO CŨNG LÀM ĐƯỢC đó là:
Hiểu rằng khái niệm hạnh phúc của trẻ và hạnh phúc của cha mẹ là khác nhau.
Vui vẻ với những điều khác thường của trẻ.
Lắng nghe con một cách chân thành nhất.
Để trẻ tự trách nhiệm trước quyết định của mình.
Người mẹ cần có cuộc sống phong phú và sự nghiệp riêng
Trò chuyện bằng cả trái tim với trẻ.
…………..
Dù cha mẹ không cố gắng, không hi sinh bản thân, thì trẻ cũng tự có năng lực thích nghi với cuộc sống.
Cha mẹ không có nghĩa vụ phải đem lại hạnh phúc cho con, mà chỉ có nghĩa vụ nuôi dạy con có năng lực tự đem lại hạnh phúc cho mình.
Bạn có muốn thử bắt đầu nỗ lực một chút để cả cha mẹ và con cái đều trở nên hạnh phúc hay không? Hãy cùng đọc sách và chia sẻ kinh nghiệm của bạn nhé.